Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Thiểu số đã thắng cuộc bầu cử bằng cách nào?

Xin được đăng tải lại bài viết đã được đăng trên nội san True Light số 3 tháng 11 năm 2014.  

Cuộc bầu cử thay đổi lịch sử Hoa Kỳ

Trong đời sống chính trị Hoa Kỳ nửa đầu thế kỷ 19 trở về trước, nô lệ là một phần tự nhiên của xã hội và không chính khách nào có tiếng nói thực sự chống lại vấn nạn này.  Chỉ đến những năm 1850, Abraham Lincoln và đảng Cộng hòa mới bắt đầu lên tiếng về việc chấm dứt chủ nghĩa chiếm hữu nô lệ này.  Đối lập với đảng Cộng hòa, đảng Dân chủ muốn duy trì chủ nghĩa chiếm hữu nô lệ trên toàn nước Hoa Kỳ, và họ đang chiếm ưu thế hoàn toàn với thắng lợi vang dội trong 2 cuộc bầu cử năm 1852 và 1856. 

Cũng trong thời kỳ này, Hoa Kỳ mở rộng về phía Tây, trải dài đến tận California và Oregon.  Nhiều vùng lãnh thổ dần được sáp nhập vào Hoa Kỳ.  Câu hỏi cho cử tri của các vùng lãnh thổ này là khi gia nhập vào liên bang, họ muốn cho phép chiếm hữu nô lệ hay xóa bỏ chiếm hữu nô lệ.  Ngã rẽ chính trị này đã dẫn đến một cuộc bầu cử mà người đại diện cho thiểu số lại chiến thắng đa số.  Abraham Lincoln và đảng Cộng hòa đã dành chiến thắng chỉ với 39.9% số phiếu bầu.  Hơn 60% cử tri Hoa Kỳ đã bầu cho ứng cử viên mà không phải là Lincoln.  Thiểu số đã thắng cuộc bầu cử bằng cách nào? 

Câu trả lời chính là chia rẽ của đa số.  Cho đến cuối thập niên 1850, phần lớn dân số Hoa Kỳ vẫn đồng ý với chủ nghĩa nô lệ, đảng Dân chủ vẫn nhận được sự ủng hộ của đa số cử tri.  Tuy nhiên, sự chia rẽ bắt đầu khi đảng Dân chủ tổ chức đại hội đảng tháng 4 năm 1860 để chọn lựa ứng cử viên.  Các đại biểu đến từ miền Bắc muốn đưa Thượng Nghị sỹ Stephen A. Douglas ra tranh cử trong khi các đại biểu miền Nam phản đổi quan điểm của Douglas cho phép các vùng lãnh thổ tự do chọn lựa có cho phép chiếm hữu nô lệ hay không.  Các đại biểu miền Nam muốn đưa đương kim Phó Tổng thống John C. Breckinridge ra tranh cử.  Đại hội đảng Dân chủ thất bại và cả Douglas và Breckinridge trở thành ứng cử viên.  Ngoài ra, một số chủ đồn điền miền Nam còn quyết định lập một đảng mới, ôn hòa hơn, Đảng Liên hiệp Hiến pháp và đưa Thượng Nghị sỹ John Bell ra ứng cử. 
Kết quả cuộc bầu cử là Lincoln dành được 39.9% số phiếu trong khi ba ứng cử viên còn lại chia nhau 60% số phiếu bầu, trong đó, Douglas dành được nhiều phiếu nhất với 29.5%. 

Đây không phải là lần đầu tiên hay lần duy nhất mà Tổng thống Hoa Kỳ không được bầu với đại đa số phiếu.  Nhưng nó đặc biệt ở chỗ, trong cả bốn ứng cử viên, chỉ có duy nhất Abraham Lincoln là người muốn xóa bỏ chủ nghĩa nô lệ.  Phần lớn cử tri, dù cho đồng ý với sự duy trì chủ nghĩa nô lệ, nhưng bị giằng xé giữa ba ứng cử viên và sự chia rẽ đó đã làm họ trả giá bằng một sự thất bại.  Từ đó, đất nước Hoa Kỳ đã hoàn toàn thay đổi và không bao giờ trở lại trạng thái như trước! 

Tâm sự cuối cùng của Chúa Giê-xu

Khi một người phải đối diện với cái chết cận kề và người đó tin rằng mình không thể qua khỏi, thì mọi lời người đó trăn trối sẽ được coi là lời nói có tính xác thực và quan trọng nhất.  Trong đêm sau bữa tối cuối cùng, Chúa Giê-xu và các môn đồ cùng lên núi và cầu nguyện.  Ngài biết rằng đây sẽ là những thời khắc ngắn ngủi còn lại của Ngài ở trên đất.  Trong lời cầu nguyện của mình, Chúa Giê-xu cầu nguyện cho sự hiệp một của các môn đồ[1] và Ngài cũng cầu nguyện cho sự hiệp một của những người sẽ được nghe lời chứng của các môn đồ[2], chính là chúng ta, những Cơ đốc nhân ngày nay.  
Đối với Chúa Giê-xu, điều cần thiết và quan trọng nhất trước khi Ngài về với Đức Chúa Cha chính là sự hiệp một của toàn bộ các môn đồ và mọi Cơ đốc nhân.  Dường như sự hiệp một cũng là việc quá sức với các Cơ đốc nhân. 

Theo nghiên cứu Sơ lược về tình hình Tôn giáo Toàn cầu của Trung tâm Nghiên cứu PEW, tính đến cuối năm 2010, Cơ đốc giáo là tôn giáo lớn nhất với 2.2 tỷ tín đồ, chiếm đến 32% dân số trên toàn cầu.  Nhưng mặt khác, theo cuốn Bách Khoa Toàn Thư Thế Giới Cơ Đốc do Barrett, Kurian, Johnson (Nhà xuất bản Đại học Oxford, tái bản lần 2, năm 2001), Cơ đốc giáo cũng là tôn giáo có nhiều hệ phái nhất ("denominations") với hơn 33,000 hệ phái, theo 6 nhóm lớn.  Xem ra điều mà Chúa Giê-xu lo lắng quả là không thừa. 

Lẽ ra chúng ta đã phải làm gì

Khi nói về sự khởi đầu của trường đại học Regent, nhà sáng lập M.G. "Pat" Robertson chia sẻ hình ảnh làm ông ấn tượng nhất về sự hiệp một lại đến từ chính những người xây tháp Ba-bên, nhân vật phản diện trong Sáng Thế Ký.  Kinh Thánh có chép rằng, khi nhìn thấy loài người quyết tâm xây dựng tháp Ba-bên, Đức Chúa Trời phán "nếu chúng khởi sự như một dân nói cùng một ngôn ngữ, thì sẽ chẳng có gì chúng lên kế hoạch mà chúng không làm được hết."  Vì ngôn ngữ là phương tiện để chúng ta giao tiếp với nhau, nên những con người xây tháp Ba-bên đã giao tiếp với nhau một cách hoàn hảo và công việc của họ cứ được tiến hành đều đặn cho đến khi Chúa làm cho họ bất đồng với nhau.  Khi sự bất đồng nảy sinh, mỗi người đi về một hướng và công việc bị bỏ dở. 

Từ bài học đó, chúng ta có thể thấy được chìa khóa của việc hiệp một chính là học cách trở thành một dân nói cùng một ngôn ngữ.  Sự cứu chuộc  trong Chúa Giê-xu đã đưa chúng ta trở thành con dân của nước trời, và, nhờ ân điển của Ngài, chúng ta có thể học cách nói cùng một ngôn ngữ. 

Thứ nhất, sự bất đồng trong giao tiếp làm cho chúng ta chia rẽ.  Cách khắc phục cơ bản nhất là chúng ta phải có cái nhìn đúng về vị trí của mình trong thân thể Đấng Christ và vai trò của những anh em khác.  Trong thư gửi cho hội thánh thành Phi-líp, Phao-lô dặn rằng chúng ta không được làm gì mà xuất phát từ lòng ích kỷ và tự phụ, ngược lại, phải khiêm nhường, tôn trọng người khác hơn mình[3].  Cách nhanh nhất dẫn đến sự bất đồng chính là coi mình cao trọng hơn người khác.  Điều đó, giống như trong giao tiếp, ta chỉ có nói chứ không có nghe người đối diện.  Nếu không có sự khiêm nhường, tôn trọng người khác thì chúng ta sẽ không thể giao tiếp với nhau để hóa giải những khác biệt được. 

Thứ hai, chúng ta phải tập tành tìm cách giải quyết bất đồng bằng hòa giải.  Khi tranh tụng, sẽ có một bên được và một bên mất bất kể bên nào đúng, bên nào sai.  Điều đó đi ngược lại với tinh thần gây dựng cho thân thể của đấng Christ theo nguyên tắc do Đấng Christ thiết lập tại Ma-thi-ơ 18:15-20 và Phao-lô khẳng định lại trong I Cô-rinh-tô 6:1-11.  Mục đích của hòa giải là tìm cách chia sẻ thiệt hại giữa các bên liên quan và hàn gắn lại rạn nứt trong mối quan hệ chứ không phải để phân định thiệt hơn.  Chính Chúa Giê-xu đã làm hoàn hảo vai trò hòa giải để đưa con người về với Đức Chúa Trời.   
Cuối cùng, chúng ta hãy tập tành việc phó sự sống mình vì bạn hữu[4].  Để hiểu rõ hơn sự hy sinh này, xin hãy xem câu chuyện dưới đây.  

Một buổi chiều nọ, Carolyn Savage được bác sỹ báo tin vui là kết quả thụ tinh trong ống nghiệm của cô đã thành công, nhưng bệnh viện đã mắc sai lầm và cấy vào Carolyn phôi thai của một cặp vợ chồng khác.  Carolyn và Sean, chồng cô, vừa vui mừng, vừa hoang mang về đứa trẻ sẽ ra đời.  Mặc dù gia đình Savage muốn giữ lại đứa trẻ vì Carolyn đã phải mang nặng đẻ đau, và họ có thể kiện để đòi quyền nuôi đứa trẻ, đồng thời kiện cơ sở y tế đã mắc sai lầm.  Nhưng họ đã không làm như vậy.  Một ngày kia, gia đình Morrell cũng rụng rời khi nghe tin rằng đứa trẻ mang theo DNA của mình sẽ được người phụ nữ khác mang thai, và có khả năng trở thành con của gia đình đó.  Cuối cùng, thay vì chọn lựa phương án tranh tụng đến cùng, gia đình Savage đã quyết định làm điều không tưởng, đó là trao lại đứa bé cho gia đình Morrell.  Trong buổi trả lời phỏng vấn của CNN, Carolyn Savage đã nói rằng niềm tin của hai vợ chồng họ đã thôi thúc họ trả lại đứa bé mà cô đã gắn bó suốt thời kỳ mang thai.  Gia đình Morrell cũng hoàn toàn ngỡ ngàng vì họ đã từng nghĩ rằng không bao giờ được gặp lại đứa bé mang DNA của mình. 

Gia đình Savage đã thực sự cho thế giới thấy tình yêu lớn nhất chính là đặt nhu cầu của người khác lên trên nhu cầu của mình, đó chính là sự hy sinh lớn lao mà Chúa Giê-xu nói.  Một cặp vợ chồng sau bao nhiêu khó khăn trong việc sinh nở, sẵn sàng cho đi đứa con mà mình sinh ra vì họ tin rằng điều đó sẽ là tốt hơn cho cặp vợ chồng kia và đứa bé. 

Khi có tình yêu thương của Đấng Christ, chúng ta sẽ biết hạ mình xuống và tôn trọng anh chị em mình, có thể hòa giải mọi bất đồng và hơn hết là từ bỏ chính mình vì người khác.  Chúng ta đã là một dân, và tình yêu thương chính là ngôn ngữ chung của mọi Cơ đốc nhân để làm thành mọi việc được giao phó. 

Từ những con người muốn chống nghịch lại Chúa bằng cách xây dựng tháp Ba-bên cho đến những chính trị gia muốn duy trì chủ nghĩa nô lệ, chỉ cần họ hiệp một được với nhau, xóa đi mọi sự khác biệt, thì họ đã có thể đạt được điều họ muốn, kể cả khi điều đó có là xấu!  Với gần 1/3 thế giới là Cơ đốc nhân, những người sống có chung mục đích, chỉ cần chúng ta có thể hiệp một lại với nhau bằng ngôn ngữ của tình yêu thương thì thế giới này chắc sẽ tốt đẹp hơn biết bao. 


[1] Giăng 17:11 "Lạy Cha thánh, xin Cha bảo vệ họ, những người Cha ban cho Con, trong danh Cha, để họ hiệp một như Chúng Ta là một."
[2] Giăng 17:20-21 "Con không chỉ cầu xin cho họ, nhưng cũng cho những ai nghe lời họ mà tin Con, để tất cả họ có thể hiệp một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha"
[3] Phi-líp 2:3 " Đừng làm điều gì do lòng ích kỷ và tự phụ. Trái lại phải khiêm nhường, tôn trọng người khác hơn mình"
[4] Giăng 15:13 "Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình."

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

Tại sao Cơ đốc nhân truyền giáo ủng hộ Israel

Một tháng nữa, ngày 17 tháng 12[1], là lễ Chanukkah hay Hanukkah, có lẽ là ngày lễ nổi tiếng nhất của người Do Thái tại các quốc gia Bắc Mỹ và Tây Âu.  Sự nổi tiếng và quen thuộc của ngày lễ này với những người ngoài cộng đồng Do Thái không phải vì tầm quan trọng về ý nghĩa tôn giáo của nó nhưng vì việc nó thường được tổ chức trong dịp Cơ đốc nhân kỷ niệm Lễ Giáng Sinh.  Có lẽ đây cũng là dịp tiện để chia sẻ với các bạn bài diễn thuyết của Tiến sỹ, mục sư M. G. "Pat" Robertson trước các lãnh đạo nhà nước Israel với chủ đề "Tại sao Cơ đốc nhân Truyền giáo ủng hộ Israel"[2]

Ngôi sao Đa-vít, biểu tượng trên lá cờ tổ quốc của nhà nước Israel

Một ngày cuối thế kỷ 19, Nữ hoàng Victoria của Nước Anh hỏi thủ tướng Anh lúc đó, Benjamin Disraeli[3] rằng: "Theo ông, có chứng cứ nào để chứng minh sự tồn tại của Đức Chúa Trời?"

Disraeli nghĩ một lát và trả lời: "Dân Do Thái, thưa nữ hoàng."

Khi suy ngẫm lại, theo Disraeli, chứng cứ cơ bản về sự tồn tại của Đức Chúa Trời chính là sự tồn tại của người Do Thái ... một dân tộc mà năm 586 Tr.C, đã bị đưa đi lưu đày ở Ba-by-lon, nhưng được đưa về sau 70 năm để tái thiết lại đất nước.  Họ lại bị thảm sát một cách tàn khốc và làm cho tan lạc bởi người La Mã năm 70 S.C, nhưng sau hơn chục thế kỷ bị tản lạc, bị trục xuất, bị tàn sát bởi Nga hoàng, Đức Quốc Xã, và bao nhiều các âm mưu diệt chủng khác, họ vẫn giữ vững đức tin, truyền thống - và ngày nay, sau 2,500 năm lưu lạc, đã trở về miền đất được Đức Chúa Trời hứa ban cho tổ phụ của họ.  Một quốc gia mới bắt đầu trên mảnh đất này năm 1948 được đặt theo tên của Gia-cốp, tổ phụ của họ, người mà được Đức Chúa Trời đặt tên lại là I-sơ-ra-ên (Israel), nghĩa là "Hoàng tử của Đức Chúa Trời[4]."  Để làm ứng nghiệm những lời tiên tri cổ đại, Đức Chúa Trời đã cảm động lòng của Eliezer Ben-Yehuda[5], được con trai Ehud của ông thuật lại với tôi rằng, khi cha ông còn sống ở Đông Âu, ông nghe tiếng phán và nhìn thấy ánh sáng hướng dẫn ông mang lại cho người Do Thái một ngôn ngữ thuần khiết, tiếng Hê-bơ-rơ, ngôn ngữ của Torah[6] và các tiên tri cổ đại. 

Đúng vậy, sự tồn vong của người Do Thái là phép lạ của Đức Chúa Trời.  Việc người Do Thái quay về miền đất được hứa ban cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp là phép lạ của Đức Chúa Trời.  Các chiến thắng ấn tượng của quân đội Do Thái trước mọi kẻ thù trong các cuộc chiến tranh năm 1948, 1967 và 1973 rõ ràng là phép lạ của Đức Chúa Trời.  Những thành quả công nghệ kỳ diệu của nền công nghiệp Israel, sức mạnh quân sự, sự phồn thịnh của nền nông nghiệp Israel, hoa trái và sự tươi tốt của mảnh đất này là lời chứng về sự quan tâm, săn sóc của Đức Chúa Trời đối với quốc gia mới này và sự khôn ngoan trời phú của những con người này.  Nhưng những gì đang xảy ra đều đã được báo trước bởi lời của tiên tri Ê-xê-chi-ên với người Do Thái trong thời kỳ bị lưu đày ở Ba-by-lon: 

               "Ta sẽ đưa các ngươi ra khỏi các dân; Ta sẽ nhóm họp các ngươi về từ mọi nước và Ta sẽ đem các ngươi trở về đất nước của các ngươi. ...  Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng mới và đặt một tâm linh mới trong các ngươi... khiến các ngươi vâng theo các luật lệ Ta và cẩn thận vâng giữ các mạng lệnh Ta.  Các ngươi sẽ được sống trong đất Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi, rồi các ngươi sẽ làm dân Ta và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của các ngươi.  Ta sẽ cứu các ngươi ra khỏi mọi sự ô uế của các ngươi. 
               "Ta sẽ truyền cho ngũ cốc để chúng gia tăng sản lượng... Ta sẽ làm cho cây ăn quả của các ngươi sai trái và ruộng rẫy của các ngươi luôn được mùa, để các ngươi không bao giờ bị khổ nhục vì nạn đói trước mặt các dân nữa. ...  CHÚA Hằng Hữu phán, "Trong ngày Ta sẽ tẩy sạch khỏi các ngươi mọi tội lỗi của các ngươi, Ta sẽ làm cho các thành phố của các ngươi có người ở, những nơi đổ nát sẽ được xây dựng lại.  Những đất đai bị bỏ hoang sẽ được cày cấy, thay vì cứ bị bỏ hoang trước mắt những kẻ qua lại.  Họ sẽ nói "Đất này lâu nay bị bỏ hoang, mà bây giờ đã trở nên như cảnh vườn Ê-đen; những thành vốn điêu tàn, hoang vắng, và đổ nát, bây giờ có đông người ở và trở nên hùng cường.""
               Khi ấy các dân còn sót lại đang sống chung quanh các ngươi sẽ biết rằng Ta, CHÚA, đã xây dựng lại những nơi đổ nát và trồng trọt lại những ruộng đất đã bị bỏ hoang.  Ta, CHÚA, đã phán như thế, và Ta sẽ làm như thế." (Ê-xê-chi-ên 36:24-36).

Cơ đốc nhân truyền giáo ủng hộ Israel vì chúng ta tin tin rằng những lời của Môi-se và các tiên tri cổ đại được Đức Chúa Trời truyền cảm hứng.  Chúng ta tin vào việc hình thành nhà nước Israel trên miền đất đã được Đức Chúa Trời hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, và được Đức Chúa Trời xức dầu.  Chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời có kế hoạch dùng đất nước này là nguồn phước cho các nước trên khắp cả thế giới. 

Tất nhiên, chúng ta, cũng như mọi người có tri thức, ủng hộ Israel vì Israel là ốc đảo dân chủ, ốc đảo tự do cá nhân, ốc đảo về sự tôn trọng luật pháp, và một ốc đảo về sự hiện đại trong một biển các chế độ độc tài, sự đàn áp tự do cá nhân, và ý chí tôn giáo muốn quay trở lại xã hội phong kiến Ả-rập thế kỷ 8. 

Những thực tế về đất nước Israel hiện đại đều là sự thật.  Nhưng chỉ những phát biểu chính trị không thôi là chưa đủ để thể hiện hết những nhiệt huyết dành cho Israel ở trong lòng của hàng trăm triệu Cơ đốc nhân truyền giáo. 

Quý vị phải nhận ra rằng Đức Chúa Trời, đấng đã phán với Môi-se trên núi Sinai là Đức Chúa Trời của chúng ta.  Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia cốp là các Tổ phụ thuộc linh của chúng ta.  Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, và Đa-ni-ên là những vị tiên tri của chúng ta.  Vua Đa-vít, người vừa lòng Chúa, là anh hùng của chúng ta.  Giê-ru-sa-lem thánh là thủ đô thuộc linh của chúng ta.  Việc người Do Thái tiếp tục duy trì chủ quyền trên miền Đất Thánh là bằng chứng cho chúng ta về việc Đức Chúa Trời của Kinh Thánh thực sự tồn tại và Lời Ngài là lẽ thật. 

Và chúng ta lưu ý rằng Cơ đốc nhân truyền giáo ngày nay đang hầu việc một người Do Thái mà chúng ta tin rằng Ngài chính là Đấng Mê-si của Israel được các tiên tri cổ đại nhắc đến, và Ngài cũng giao nhiệm vụ truyền giao sứ mạng cứu rỗi đến thế giới qua mười hai môn đồ người Do Thái. 

Chúng ta biết rằng Cơ đốc giáo ngày nay với hơn 2 tỷ tín đồ, là tôn giáo phát triển nhanh nhất thế giới.  Chỉ trong vòng 20 năm nữa, con số này sẽ tăng lên 3 tỷ.  Trong số đó, ít nhất 600 triệu là những Cơ đốc nhân truyền giáo và đầy rẫy thuộc linh, tin vào Kinh Thánh, và ủng hộ nhà nước Israel.  Trong 20 năm nữa, con số này sẽ tăng lên 1 tỷ.  Israel có hàng triệu người bạn Cơ đốc nhân ở Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, trên khắp Châu Phi và Nam Mỹ, cũng như Bắc Mỹ. 

Chúng tôi sát cánh trong cuộc đấu tranh của các bạn.  Chúng tôi ở cùng các bạn khi ngọn sóng bài trừ Do Thái đang dâng lên trên toàn thế giới.  Chúng tôi ở cùng các bạn bất kể mối đe dọa của nhóm Thánh chiến Wahabi, nhóm khủng bố Hezbollah, và những kẻ ám sát Hamas.  Chúng tôi sát cánh với các bạn bất chấp các lệnh cấm vận dầu mỏ, mất đồng minh, và các vụ tấn công khủng bố trên các thành phố của các bạn. 

Chúng tôi, những Cơ đốc nhân truyền giáo nói với những người bạn Israel rằng "Hãy để chúng tôi cùng hầu việc Đức Chúa Trời của chúng ta bằng cách chống lại nọc độc của chủ nghĩa bài Do Thái và bài Si-ôn đang dâng trào trên toàn thế giới."  Sau khi khẳng định cam kết ủng hộ của mình, tôi muốn đề đạt hai vấn đề với những người bạn Do Thái:

Thứ nhất, xin đừng tự phá hủy quốc gia mình.  Nếu các bạn chủ đích phá hủy quốc gia mình, thì sẽ rất khó cho những người bạn như chúng tôi ủng hộ các bạn. 

Chắc tôi không cần phải nhắc lại cho các khán giả tại đây mục đích của Yasser Arafat, PLO, Hamas, Hezbollah và nhóm Thánh chiến Hồi giáo.  Mục tiêu của họ không phải là hòa bình, nhưng là sự hủy diệt hoàn toàn của Nhà nước Israel.  Chưa bao giờ họ và các đồng minh của họ trong thế giới Hồi giáo công nhận quyền tự chủ của Israel đối với bất kỳ tấc lãnh thổ nào ở Trung Đông.  Nếu một nhà nước Palestine được hình thành trong lòng Israel với quyền tự chủ để thành lập quân đội, nhập vũ khí hiện đại, thậm chí cả những vũ khí hủy diệt hàng loạt, và được hoạt động hoàn toàn bí mật và có quyền miễn trừ ngoại giao, khả năng phòng vệ của Nhà nước Israel sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. 

Thông điệp "đổi đất lấy hòa bình" là một ảo tưởng viển vông. Vùng Sinai đã bị mất.  Nó có đem lại hòa bình vĩnh viễn không?  Không.  Miền Nam Liban đã mất.  Nó có đem lại hòa bĩnh vĩnh viễn không?  Không.  Mặt khác, Hezbollah đưa xe tăng tới biên giới Israel và hô hào "Vào Giê-ru-sa-lem!"  Ngày nay, có đến 10,000 tên lửa đã bắn vào Metulla, Qiryat, Shemona, và toàn miền bắc Israel xuất phát từ lãnh thổ Miền Nam Liban.  Arafat được trưởng dưỡng bởi người đã thề sẽ hoàn tất công việc của Adolf Hitler.  Làm sao để một người theo chủ nghĩa hiện thực có thể tin rằng kẻ sát nhân này và các cộng sự của hắn có thể trở thành đồng minh hòa bình được? 

Tôi hiểu sâu thẳm trong tim nhiều người Israel muốn hòa bình, muốn được tự do khỏi những nỗi sợ khủng bố của những kẻ đánh bom cảm tử.  Tôi muốn lưu ý các bạn về sự kiện trong Chiến tranh Lạnh, người dân Hoa Kỳ cũng muốn được tự do khỏi nỗi ám ảnh hủy diệt hạt nhân.  Khi đó, tại Reykjavik, Ai-xơ-len, trong một cuộc hội đàm giữa Tổng thống Ronald Reagan của Hoa Kỳ và Chủ tịch Mikhail Gorbachev của Liên Xô, một cơ hội tuyệt vời cho hòa bình được cả Tổng thống Reagan và Gorbachev xem xét.  Lời đề xuất về việc cắt giảm vũ khí hạt nhân không tưởng được đưa ra.  Lời đề xuất của Gorbachev bao gồm tất cả mọi điều khoản mà phái đoàn đàm phán về vũ khí của Hoa Kỳ muốn, ngoại trừ một điều khoản.  Điều kiện của phía Liên Xô là Hoa Kỳ phải từ bỏ Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược, hay còn gọi là "chiến tranh giữa các vì sao".  

Tổng thống Reagan xem xét một cách cẩn thận lời đề xuất và thẳng thừng từ chối.  Nếu không có Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược, sẽ không đạt được thỏa thuận.  Gorbachev sững sờ.  Cả hai nhà lãnh đạo, với nỗi buồn trong lòng, kết thúc cuộc hội đàm và rời Reykjavik.  Một lần nữa, thế giới đối mặt với nguy cơ hủy diệt hạt nhân.  Các báo chí tự do Mỹ chỉ trích quyết định của Reagan.  Nhưng, ông ấy giữ vững quan điểm. 

Ngày nay, chúng ta đều biết rằng ông ấy đã đúng.  Người Nga không thể cạnh tranh được với Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua vũ trang và Gorbachev đã biết điều đó.  Khi sự hăm dọa kết thúc, mối hiểm họa cũng qua, Reagan đã thắng lợi bằng việc đứng vững.  Không lâu sau, sự tự do bùng nổ ở Ba Lan, Hung-ga-ri, và Đông Đức.  Bức tường Béc-lin sụp đổ.  Những hàng rào thép gai bị dỡ bỏ. 

Thế giới được bảo vệ khỏi nỗi sợ hạt nhân.  Nỗi sợ này không còn nữa khi một người lãnh đạo mạnh mẽ đứng vững, bất chấp ý kiến của công chúng, ngược lại với lời khuyên của rất nhiều cố vấn và nói không!  Mong rằng các nhà lãnh đạo của Israel trong năm 2004 sẽ có sự quả cảm khi nhìn thẳng vào mắt các quốc gia trên thế giới và nói không khi lợi ích quốc gia của các bạn cần điều đó! 

Thứ hai, Cơ đốc nhân trên thế giới đề nghị các bạn không từ bỏ những biểu tượng quý giá từ các di sản thuộc linh của các bạn. 

Gần đây tôi đọc bài viết của một nhà bình luận Mỹ gốc Do Thái trên Tạp chí Phố Wall (Wall Street Journal) nói rằng Núi Đền Thờ và "Bức tường Than khóc" là những địa danh và những hòn đá thiêng liêng nhưng không đáng phải đổ máu. 

Hãy thử suy nghĩ xem, Israel là nơi mà tổ phụ Áp-ra-ham đưa Y-sác đến dâng làm của lễ cho Đức Chúa Trời.  Nơi được Vua Đa-vít mua lại từ A-rau-na, nơi mà thiên sứ của Đức Chúa Trời đã đứng với lưỡi gươm trên tay.  Nơi có đền thờ của Sa-lô-môn.  Nơi Chí Thánh.  Nơi Chúa Giê-xu đã đi qua và giảng dạy.  Là trung tâm thuộc linh của người Do Thái thờ phượng Đức Chúa Trời có thật, tất cả những điều này không có giá trị gì và chỉ là một đống đất đá, không đáng phải hy sinh?  Thật là một tuyên bố không thể tin nổi! 

Đừng nhầm lẫn, cả thể giới này bị làm cho hỗn loại bởi các cuộc đấu tranh tôn giáo.  Cuộc chiến không phải vì tiền hay đất đai; nó cũng không chỉ vì sự nghèo đói chống lại sự giàu có; nó cũng không chỉ vì các tập tục hủ lậu chống lại sự hiện đại.  Không, cuộc đấu tranh này là liệu Hubal, thần Mặt trăng của Mecca, hay còn được gọi là Allah, là tối cao, hay liệu Đức Chúa Trời - Đức Giê-hô-va trong Kinh Thánh của Cơ Đốc Giáo - Do Thái giáo mới là tối cao?  

Nếu những người được Đức Chúa Trời chọn lựa giao nộp những địa điểm thiêng liêng nhất cho Allah kiểm soát; nếu họ giao nộp cho những kẻ Hồi giáo phá hoại những khu mộ của Ra-chên, Giô-sép, các Tổ phụ, và các tiên tri cổ đại; nếu họ chỉ tin vào chủ quyền của họ đối với miền Đất Thánh đến từ Công tước Balfour của Nước Anh và Liên Hợp Quốc hơn là những lời hứa của Đức Chúa Trời toàn năng thì, khi đó, Hồi giáo đã thắng trận.  Trên toàn thế giới Hồi giáo, thông điệp này sẽ được giao truyền: "Allah vĩ đại hơn Giê-hô-va.  Những lời hứa của Giê-hô-va cho người Do thái không có giá trị gì.  Ngày nay, chúng ta có thể trong danh Allah, đập tan dân Do Thái và đuổi chúng ra khỏi vùng đất thuộc về Allah." 

Nói tóm lại, những sáng kiến chính trị mà ai đó cho rằng sẽ bảo đảm hòa bình sẽ, thực sự, chỉ bảo đảm được những tranh đấu không ngừng và sự thất bại tuyệt đối.  Những nhà lãnh đạo chỉ hiểu được khía cạnh con người của sự tồn vong của Israel và những người chối bỏ khía cạnh thuộc linh sẽ nhận ra rằng mình đang nhận lấy nồi súp đậu của Ê-sau chứ không phải quyền thừa kế của Gia-cốp. 

Trong Ngày Giáng Sinh năm 1974, tôi đã có dịp phỏng vấn Thủ tướng Yitzhak Rabin cho chương trình truyền hình của tôi, The 700 Club.  Rabin than phiền về việc sau các chiến thắng của quân đội Israel, quốc gia này bị ngăn cản việc đạt được hòa ước. 

Đó là 30 năm về trước, Israel dường như bị cô lập và cô đơn như ngày nay.  Sau khi kết thúc buổi phỏng vấn, tôi hỏi Thủ tướng Rabin câu hỏi cuối cùng: "Ông muốn Hoa Kỳ làm điều gì cho Israel bây giờ?" 

Ông ấy trả lời ngay lập tức.  "Hãy mạnh mẽ lên!  Hãy mạnh mẽ lên!" 

Tối hôm đó, tôi dự bữa tối với một nhóm vài trăm người đã cùng tôi đến từ Hoa Kỳ.  Chúng tôi gặp trong một phòng ăn lớn ở Khách sạn InterContinental trên Đồi Ô-liu tại Giê-ru-sa-lem, từ sàn tới trần có một góc nhìn tuyệt diệu về phía Núi Đền Thờ đã được thắp sáng.  Khi tôi chia sẻ lại với nhóm về nội dung buổi họp báo, tôi dần nhớ lại nỗi buồn của ngài thủ tướng, cảm giác quốc gia bị cô lập.  Tối hôm đó, tôi đã lập một lời thề với Đức Chúa Trời rằng, cho dù điều gì có xảy ra trong tương lai, tôi và tất cả những tổ chức do tôi lãnh đạo sẽ đứng vững ủng hộ Israel và người Do Thái.  Tôi lấy làm tự hào tuyên bố rằng tôi vẫn giữ lời hứa đó kể từ năm 1974. 

Để kết lại, tôi muốn gửi đến Israel của năm 2004 một thông điệp mà Yitzhak Rabin đã gửi đến Hoa Kỳ vào Ngày Giáng Sinh năm 1974, vì các bạn là những nhân chứng sống rằng các lời hứa của Đức Chúa Trời Tối cao là có thật: "Hãy mạnh mẽ lên!  Hãy mạnh mẽ lên!" 

Ngài sẽ ở cùng các bạn và những người bạn truyền giáo cũng sẽ ở cùng các bạn.  Cám ơn, và nguyện Chúa ban phước trên các bạn! 
--------------------
Tiến sỹ, mục sư Pat Robertson

Tiến sỹ, mục sư M.G. "Pat" Robertson thành lập đài truyền hình cơ đốc đầu tiên trên thế giới, Christian Broadcasting Networks (CBN), khi phát sóng lần đầu ngày 1 tháng 10 năm 1961.  Từ số vốn đầu tư ban đầu $70, ngày nay CBN là đài truyền hình phủ sóng trên toàn cầu qua, truyền hình cáp, vệ tinh và mạng internet đến hàng triệu khán giả trên toàn thế giới.  Năm 1978, Pat Robertson thành lập trường Đại học Regent tại thành phố Virginia Beach, bang Virginia, Hoa Kỳ.  Năm 1990, Pat Robertson cũng thành lập công ty luật American Center for Law & Justice (ACLJ) tại Washington, D.C. với mục đích bảo vệ các giá trị của Hiến pháp Hoa Kỳ. 




[1] Ngày 25 tháng Kislev theo lịch Do Thái, vì vậy, ngày chính xác theo dương lịch sẽ thay đổi theo từng năm
[2] Bài diễn thuyết tại Hội Thảo Herzliya, Trường Lauder về Chính phủ, Chính trị và Chiến lược tại Israel ngày 17 tháng 12 năm 2003
[3] Benjamin Disraeli (1804-1881) giữ chức thủ tướng Anh từ năm 1874 đến năm 1880.  Cho đến 2014, Benjamin Disraeli vẫn là thủ tướng Anh duy nhất mang dòng máu Do Thái.  
[4] Sáng thế ký 32:28 theo bản dịch King James
[5] Eliezer Ben-Yehuda (1858-1922) được người Israel ngày nay coi như cha đẻ của nhà nước Israel hiện đại 
[6] Các sách luật pháp của người Do Thái, bao gồm năm sách của Môi-se

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014

Phiên tòa Thứ Sáu Tốt Lành


Hôm nay, ngày Chúa Nhật Cọ (Palm Sunday) ngày đầu tiên của Tuần Lễ Thánh (Holy Week) đánh dấu thời điểm Chúa Giê-xu tiến vào thành Giê-ru-sa-lem dưới sự tiếp rước trọng thị của người dân Do Thái.  Nếu bạn có mặt trong đám đông tiếp rước Chúa Giê-xu ngày Chúa Nhật Cọ, rất khó có thể hình dung chính những con người này, chỉ vài ngày sau, lại quay lưng lại đòi đóng đinh Chúa Giê-xu. 

Các sách phúc âm dành phần lớn thời lượng để thuật lại diễn biến của Tuần Lễ Thánh này vì mức độ quan trọng của nó.  Trong Tuần Lễ Thánh có một sự kiện được thuật lại khá chi tiết đó là diễn biến trong đêm Chúa Giê-xu bị bắt, xét xử, đóng đinh và chết.  Toàn bộ diễn biến từ lúc Chúa Giê-xu dùng bữa tối cuối cùng với các môn đồ, Ngài vào cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê, bị lính của lãnh đạo tôn giáo Do Thái bắt, giải đến trước mặt các lãnh đạo tôn giáo Do Thái, bị chuyển đến quan tổng đốc La Mã, bị đánh, vác thập tự giá lên đồi Gô-gô-tha, đóng đinh và chết được thuật lại chi tiết trong cả bốn sách phúc âm và khớp nhau đến kỳ lạ! 

Thời điểm mà Chúa Giê-xu trút hơi thở trên thập tự giá được các nhà nghiên cứu lịch sử và khảo cổ cho rằng là khoảng 3 giờ chiều Thứ Sáu, mà ngày nay ta quen gọi là Thứ Sáu Tốt Lành (Good Friday).  Ngày kỷ niệm cái chết của một người thì có gì mà "tốt lành"?  Có những đặc điểm bất thường về phiên tòa xét xử Chúa Giê-xu mà chúng ta nhìn thấy được sự tốt lành của Đức Chúa Trời cho chúng ta. 
Sau khi thất bại trong việc cố gắng kết tội Chúa Giê-xu theo luật pháp tôn giáo, các lãnh đạo tôn giáo tìm cách chuyển hướng vụ việc này sang án hình sự.  Ở phiên xét xử tại dinh tổng đốc La Mã, kết quả cũng không khả quan hơn cho các lãnh đạo tôn giáo so với phiên xét xử về tôn giáo. 

Những nhân chứng được gọi đến cả hai phiên xét xử thậm chí đều vi phạm quy định về giá trị của lời khai, theo cả tiêu chuẩn của luật pháp Do Thái và luật pháp La Mã.  Luật pháp Do Thái yêu cầu một lời chứng hợp lệ khi có hai nhân chứng cùng xác nhận một sự việc và sự xác nhận của các nhân chứng phải trùng khớp, tuy nhiên dù có rất nhiều nhân chứng nhưng lời khai của họ tự mâu thuẫn[1].  Theo luật pháp La Mã cổ, người cáo buộc có nghĩa vụ phải chứng minh một cách thuyết phục rằng người bị kết tội đã vi phạm luật pháp[2], nhưng các bằng chứng mà lãnh đạo tôn giáo đưa ra trước mặt Phi-lát không đủ thuyết phục và chính hành động rửa tay của Phi-lát là lời tuyên bố rằng Chúa Giê-xu là vô tội. 

Việc kết án một người hoàn toàn vô tội theo cả luật pháp Do Thái và luật pháp La Mã chính là tin mừng, tin tốt lành của Thứ Sáu Tốt Lành!  Chúa Giê-xu, mặc dù vô tội, nhưng Ngài nhận lấy cái chết để chuộc lấy tội lỗi cho chúng ta.  Một phiên tòa hoàn toàn vi phạm các thủ tục tố tụng được Đức Chúa Trời cho phép xảy ra để làm hoàn thành kế hoạch lớn lao của Ngài.  Chúa Giê-xu không phải chết dưới tay các lãnh đạo Do Thái, hay quân đội La Mã, Chúa chết vì chính tội lỗi của tôi và bạn.  Khi làm phim Sự Khổ Nạn của Chúa Cứu Thế, nhà làm phim, đạo diễn Mel Gibson đã dùng chính cánh tay của mình cầm cây đinh và búa để đóng vào tay Chúa để tuyên bố rằng chính mỗi cá nhân chúng ta là lý do Ngài chết! 




[1] Mác 14:57-59
[2] Ei incumbit probatio qui dicit, non qui negat: Nghĩa vụ chứng minh phạm tội thuộc về người cáo buộc, không phải nghĩa vụ của người bị cáo buộc.   

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014

Mục đích cuộc đời

TGIF - Today God is First[1] - Os Hillman

"Chúa phán 'Vì Ta biết rõ các chương trình Ta sẽ làm cho các ngươi, đó là các chương trình làm cho các ngươi được bình an thịnh vượng chứ không phải bị tổn hại, hầu ban cho các ngươi một hy vọng và một tương lai.'"  Giê-rê-mi 29:11

Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm. Thi-Thiên 19:1

Với nhiều người trên thế giới này, ý nghĩa thực sự của cuộc đời là kỳ nghỉ tiếp theo, thành công trong sự nghiệp, hoặc được tăng lương.  Đây là đời sống dựa trên những trải nghiệm của sự hoan lạc.  Rất nhiều người đã cố gắng cả cuộc đời để tìm kiếm một lối sống hoan lạc chỉ để cuối cùng nhận ra rằng cuộc sống đó hoàn toàn trống rỗng và vô nghĩa.  Bạn chỉ cần xem ti-vi một buổi tối để có thể nhận ra rằng các nhà quảng cáo muốn chúng ta tin vào mục đích sống này.  Chủ đề làm việc để chơi này là đề tài xuyên suốt các thông điệp quảng cáo. 

Sa-lô-môn là người đã nếm trải mọi hương vị cuộc sống.  Ông là nhà kiến thiết vĩ đại, doanh nhân vĩ đại, và là người tình tuyệt vời của phụ nữ.  Ông ấy có mọi sự hoan lạc mà con người có thể tưởng tượng ra.  Vậy nhưng, ông ấy kết luận rằng tất cả những thứ này không thể thỏa mãn được linh hồn của con người. 

Trong một chuyến đi gần đây đến một hòn đảo tuyệt đẹp đã giúp tôi cảm tạ Chúa vì Ngài đã cho tôi hiểu về cái bẫy của lối sống làm việc để chơi.  Những trải nghiệm sẽ rất tuyệt vời và sảng khoái khi đến thăm những địa danh đẹp nếu bạn không bị rơi vào cái bẫy suy nghĩ rằng những trải nghiệm này chính là một cuộc sống đầy ý nghĩa.  Những tạo vật tuyệt đẹp của Đức Chúa Trời có thể dễ dàng trở thành nhà tù của sự trống rỗng nếu Chúa Giê-xu không phải là trung tâm.  Sứ đồ Phao-lô nói rằng chỉ có một cách để tìm ra ý nghĩa và mục đích của cuộc sống:

"Tôi cầu xin Ðức Chúa Trời, Cha vinh hiển của Ðức Chúa Giê-xu, Chúa chúng ta, ban cho anh chị em linh của sự khôn ngoan và sự mặc khải để nhận biết Ngài.  Tôi cũng cầu xin cho con mắt của lòng anh chị em được khai sáng, để anh chị em có thể nhận biết hy vọng Ngài đã kêu gọi anh chị em là gì, sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển đang dành cho các thánh đồ là thể nào, và sự lớn lao vô lượng của quyền năng Ngài dành cho chúng ta, những người tin nhận..." (Ê-phê-sô 1:17-19)

Nhận biết Đấng Christ sẽ đem lại ý nghĩa và mục đích thực sự cho linh hồn con người.  Hãy dành thời gian ngày hôm nay để nhận biết Chúa theo cách gần gũi hơn.  Sau đó, bạn sẽ nhận ra ý nghĩa và mục đích thật sự của cuộc đời. 

-----
Os Hillman là chủ tịch tổ chức Lãnh đạo nơi Thương trường, tổ chức với mục đích giúp đỡ các tín hữu khám phá và hoàn thành những mục đích của Đức Chúa Trời qua mục vụ trong công việc hàng ngày.



Os Hillman




[1] Mục vụ "Ngày hôm nay, Chúa là đầu"

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Từ Pha lê đến Đấng Christ

Việc Nhà thờ lớn Pha lê phá sản vẫn còn là một dấu hỏi lớn cho cộng đồng Cơ đốc giáo trên toàn thế giới và là bài học nhãn tiền.  Trong nhiều bài viết trong những năm qua, tôi nhận thấy bài viết của ông Timothy George, trưởng khoa Thần học Beeson thuộc Đại học Samford cho người đọc thấy một góc nhìn đa chiều nhất.  Tôi xin được chia sẻ lại dưới đây. 

Nhà thờ vẫn còn đó nhưng hội thánh Cộng đồng Garden Grove và mục vụ của Ms. Schuller đã ra đi vĩnh viễn

"Nước Mỹ yêu thích những câu truyện thành công."  Đó là mở đầu của tiểu sử đáng ngưỡng mộ của Robert Harold Schuller nổi tiếng bắt đầu năm 1983.  Và quay trở lại năm 1983, "Bob" Schuller, như cách những người bạn của ông thường gọi, là một người rất thành công.  Là con trai của một gia đình sùng đạo theo dòng Cải Chính Hà Lan (Dutch Reformed), Schuller được sinh ra trên một trang trại ở Hạt Sioux, tiểu bang Iowa năm 1926.  Đó là năm trước khi Sinclair Lewis xuất bản cuốn tiểu thuyết Elmer Gantry, một cuốn tiểu thuyết châm biếm về một mục sư không bao giờ thành công ở Kansas.  Mặc dù Schuller giống Gantry ở phong cách cởi mở và sôi nổi, nhưng ông không phải là một lang băm.  Được đào tạo từ những ngôi trường hàng đầu của hệ phái của mình, Hope College và Viện Thần học Western, từ trước khi được Giáo hội Cải Chính Hoa Kỳ cử đi gây dựng một hội thánh mới ở Quận Cam, California, Schuller đã là một mục sư được công nhận. 

Quận Cam là quận quê hương của Richard Nixon.  Nhiều thập niên sau khi Schuller đến đây, nơi đây đã trở thành pháo đài không chỉ của phái chính trị bảo thủ mà còn được một số học giả gọi là "nơi thử nghiệm sự giao thoa giữa kinh thánh và văn hóa."  Không có một mục sư Cơ đốc nào chấp nhận sự du nhập hay sẵn sàng thử nghiệm hơn Robert H. Schuller.  Và không có ai thành công hơn ông ấy. 

Câu truyện về mục vụ của ông ấy như một truyền thuyết.  Hội thánh Cộng đồng Garden Grove bắt đầu năm 1955 khi Schuller thuê Rạp hát Orange Drive-In với giá $10 mỗi tuần, một địa điểm tuyệt vời nằm cạnh Disneyland mới được khai trương.  Hồi đó, các rạp hát drive-in[1] đang là thời thượng trên toàn đất nước.  Câu khẩu hiệu lúc đầu của Schuller là "Hãy đến theo cách của bạn trong ô tô của gia đình"[2].  Schuller giảng từ trên mái nhà lợp giấy dầu và vợ ông, Arvella chơi một cây đàn phím điện tử. 

Rạp hát Orange Drive-in, nơi được Ms. Schuller thuê đầu tiên để gây dựng hội thánh Cộng đồng Garden Grove năm 1955

Và họ đã đến rất đông, không chỉ đến nhà thờ walk-in/drive in đầu tiên trên toàn quốc, mà còn mục vụ truyền hình rộng lớn của Schuller có tên là "Một giờ của Năng quyền.[3]"  Trong thời kỳ đỉnh cao trên chương trình "Một giờ của Năng quyền," Robert Schuller thật tuyệt diệu.  Mỗi ngày Chúa nhật ông ấy xuất hiện trong bộ áo choàng dài, giọng nói sang sảng và những cử chỉ cuốn hút, xung quanh có những đài phun nước sẵn sàng phun nước khi ấn nút và dàn hợp xướng hàng ngàn người hát những bài thánh ca hay nhất trên truyền hình.  Trong thời đỉnh cao đó, "Một giờ của Năng quyền" là chương trình truyền hình tôn giáo được theo dõi nhiều nhất trên truyền hình trên thế giới, với số lượng khán giả ước chừng 30 triệu từ hàng trăm quốc gia trên toàn cầu. 

Trong tiếng rộn ràng của kèn và bản nhạc nền "Các từng trời tuyên xưng[4]," Schuller cung hiến Nhà thờ lớn Pha lê vào Chúa Nhật ngày 14 tháng 9 năm 1980, ngay trước khi thống đốc California, Ronald Reagan được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ.  Công trình kiến trúc kỳ diệu này được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi tiếng Philip Johnson, với 10,661 cửa sổ tráng bạc được dựng bởi hệ thống dầm thép mảnh mai.  Những cửa sổ trông thật lung linh trong ánh sáng trong những ngày đầy nắng.  Nhà thờ lớn Pha Lê, theo lời của Schuller lúc đó, là "biểu tượng của đức tin rời núi," một "đền thờ có hình ngôi sao sẽ tỏa sáng trong ánh mặt trời" đứng vững trong hàng thế kỷ tới. 

Ngày nay, tòa nhà thì vẫn đứng đó, nhưng hội thánh đã tan lạc.  Tháng 10 năm 2010, hội thánh tiến hành thủ tục phá sản theo Chương 11[5], với số nợ lên đến hơn $50 triệu đô la (hơn 1,000 tỷ đồng).  Năm sau đó, toàn bộ đất đai của hội thánh rộng 13,8 ha[6] được bán lại cho giáo hạt Công giáo với giá $57.5 triệu đô la (gần 1,200 tỷ đồng).  Người Công giáo đã tham gia vào việc chuyển đổi các tòa nhà với vị trí thuận lợi thành không gian linh thiêng kể từ khi đền thờ Pantheon ở Rô-ma[7] được chuyển đổi thành nhà thờ, nhưng đây là lần đầu tiên một nhà thờ truyền giáo khổng lồ chuyển đổi thành nhà thờ Công giáo. 

Sự sụp đổ của đế chế Schuller và cảnh nồi da nấu thịt trong gia đình ông càng làm cho sự việc tồi tệ hơn.  Câu truyện dường như quá đau đớn và hổ thẹn để thuật lại: cha và con thừa kế quyết định đi con đường riêng khi tranh chấp xem ai được giảng trên giờ vàng; các con gái và con rể cũng có nỗi khổ riêng và theo đuổi các vụ kiện tụng đòi quyền lợi; cháu gái Angie Schuller Wyatt mới đây phát hành cuốn sách gây tranh cãi "Đức Chúa Trời và Vú: Cân bằng giữa Đức tin và Tình dục,[8]" sau đó cô bị loại khỏi chương trình "Một giờ của Năng quyền"; Schuller và vợ ông cắt đứt mọi liên lạc với mục vụ mà họ đã khởi sự gần sáu mươi năm trước; và, cuối cùng ông ấy công bố việc đang được điều trị chữa ung thư thực quản. 

Tên gọi Nhà thờ lớn Pha lê gần đây đã được đổi thành Nhà thờ lớn Đấng Christ[9], có lẽ đây là một thay đổi đúng đắn.  Việc biến đổi không gian thờ phượng của nhà thờ này cho phù hợp hơn với cuộc sống theo nghi thức Công giáo đã bắt đầu.  Đây là việc đầy thách thức.  Kiến trúc hậu hiện đại của Nhà thờ lớn Pha lê rất sáng láng, siêu việt và ngược với phong cách huyền bí và gần gũi của Công giáo.  Nó được thiết kế cho những bài thuyết giảng oai hùng hơn là không khí tĩnh lặng và cầu nguyện.  Nó hợp hơn với sự ăn mừng hơn là ăn năn. 

Giáo hạt Công giáo, cũng như chính Schuller, muốn sử dụng không gian này để vươn tới những người chưa đi nhà thờ với thông điệp về Chúa Giê-xu và cung cấp sự gây dựng về thuộc linh cho những người cần.  Đây quả thật là một mục tiêu đáng giá, đúng theo tinh thần của Truyền giáo Mới[10].  Thậm chí, có thể người Công giáo sẽ có cơ hội đạt được mục đích này cao hơn những người tiền nhiệm nổi tiếng.  Nhưng thật là ngu ngốc khi cho rằng những Cơ đốc nhân đã chứng kiến việc thay đổi quyền quản trị của Nhà thờ lớn Đấng Christ, sẽ không bị cám dỗ vào những gì Robert Schuller và mục vụ của ông ấy đã làm hơn nửa thế kỷ qua. 

Và chúng ta sẽ phải nói gì với tiến sỹ Schuller?  Một trong những con gái của ông nói rằng vì lý do sức khỏe, dạo này ông hay hồi tưởng lại quá khứ.  Chúng ta chúc cho ông mạnh mẽ trong mọi đấu tranh hàng ngày.  Điều mà Schuller đã nói với rất nhiều người trong nhiều năm và chúng tôi cũng chân thành muốn nói với ông ấy là "Chúa yêu anh và chúng tôi cũng như vậy."  Có lẽ ông sẽ tìm được sự an ủi đặc biệt khi đọc lại Câu hỏi 1 trong Bảng câu hỏi Heidelberg, một trong những tài liệu vĩ đại nhất của Cơ đốc giáo Cải Chính và là tiêu chí của hội thánh thời nhỏ của Robert Schuller.  Tôi tin chắc rằng khi còn là một chú bé ở Iowa, ông ấy đã học thuộc nó:

Câu hỏi: Điều an ủi duy nhất của bạn khi sống cũng như khi chết là gì?
Trả lời: Là thân thể và linh hồn tôi khi sống và khi chết không còn là của tôi nữa mà đã hoàn toàn thuộc về Đấng Cứu thế, Chúa Giê-xu, đấng đã bằng huyết của Ngài trả giá trọn vẹn cho tội lỗi của tôi và đã hoàn toàn giải phóng cho tôi khỏi sự kiểm soát của ma quỷ; là chính Ngài đã bảo vệ tôi nên nếu không vì ý muốn của Cha thiên thượng thì một ngọn tóc cũng không rơi khỏi đầu tôi; mọi việc xảy ra đều phù hợp với mục đích giải cứu tôi.  Do đó, nhờ Đức Thánh linh, Ngài cũng đảm bảo cho tôi cuộc sống vĩnh hằng, và làm cho tôi khao khát với trọn tấm lòng từ nay sẽ sống cho Ngài. 

Bài viết đầy đủ có thể tìm thấy tại đường link này.  




[1] Một loại hình giải trí mà khách hàng chỉ việc đỗ xe trong một bãi đỗ lớn, không cần phải ra khỏi xe mà vẫn thưởng thức được một bộ phim, vở kịch hay một loại hình giải trí nào khác 
[2] Tạm dịch từ "Come as you are in the family car"
[3] Tạm dịch từ "The Hour of Power"
[4] Tạm dịch từ "The Heavens Are Telling", trích đoạn từ bản "Sự sáng tạo" (the Creation) của nhà soạn nhạc Joseph Haydn (1732-1809)
[5] Chương 11 Bộ luật Liên Bang Hoa Kỳ về Phá Sản
[6] 34 acre
[7] Đền thờ của các vị thần Olympia theo đức tin của người Hy lạp và Rô-ma cổ
[8] Tạm dịch từ "God and Boobs: Balancing Faith and Sexuality"
[9] Tạm dịch từ "Christ Cathedral"
[10] Tạm dịch từ "New Evangelization"